Tên khoa học: Paeonia lactiflora Pall.
Thuộc họ Mao lương: Ranunculaceae
Bộ phận dùng: Dùng củ to bằng đầu ngón tay hay ngón chân cái, dài 10 – 15cm, thịt trắng hồng, ít xơ. Củ nhỏ, lõi đen sẫm là xấu.Hiện nay ta chỉ có củ nhỏ, xơ nhiều, vỏ nhiều nhăn nheo (mua của Triều Tiên). Không nhầm với Xích thược: da đỏ đen, nhiều xơ.
Thành phần hoá học: Paeoniflorin là thành phần có hoạt tính sinh học chính của Bạch thược.
Tính vị – quy kinh: Vị hơi đắng, chát, chua nhiều. Vào bốn kinh tâm, tỳ, phế và can. Theo Bản thảo vấn đáp: Bạch thược là hoa mùa xuân, mà rễ hơi đắng, cho nên chủ liễm Can mộc, giáng hỏa, hành huyết.
Tác dụng và liều dùng: Thanh can, tư âm, liễm âm khí. Tại Trung Quốc, glucosid chiết xuất từ rễ Bạch thược được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Nhà nước Trung Quốc phê duyệt để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp từ năm 1998.
– Dùng sống: Trị đau nhức, trị các chứng tả lỵ, giải nhiệt, nên dùng để trị cảm mạo do chứng hư gây nên. Sao tẩm để trị các chứng bệnh về huyết, thông kinh.Sao cháy cạnh để trị bằng huyết.Ngày dùng 6 -12g.
Kiêng kỵ: Trúng hàn, đau bụng đi tả thì không nên dùng.
Cách bào chế:
Theo Trung y: Dùng Bạch thược nên lấy dao tre cạo sạch vỏ ngoài, tẩm mật loãng độ 3 giờ, phơi khô (Lôi Công).
Lý Thời Trần nói: “Phần nhiều dùng sống, muốn tránh hàn thì tẩm sao”. Nếu chữa bệnh huyết thống của phụ nữ thì tẩm dấm sao.
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
Có nhiều cách bào chế: Dùng sống: rửa sạch, phơi khô dùng đến đâu đập dập.
– Rửa sạch, ngâm nước 2 – 3 giờ vớt ra ủ một đêm, hôm sau đem đồ mềm, ủ bao tải lại cho nóng, bào mỏng, sấy hay phơi khô. Không nên ngâm lâu mất chất (ra nước trắng).
– Rửa sạch, ngâm nước 2 – 3 giờ, đồ qua, mở vung cho bay hơi, đậy vung lại để giữ nóng. Lấy dần ra bào mỏng, nếu nguội thì rắn khó bào. Làm ngày nào hết ngày hôm đó, không để sang ngày hôm khác (thường dùng).
Theo kinh nghiệm Viện Đông y:
Rửa sạch, ngâm nước thường 1 – 2 giờ (với thời gian ngâm này, chưa tiết ra nước trắng), ủ 1 – 2 đêm.Bào mỏng (thái thì đẹp nhưng lâu công) 1 – 2 ly, sao qua.
Nếu không ngâm chỉ ủ thôi thì 4 – 5 đêm mới mềm và sau mỗi đêm phải rửa nếu không thì mốc, và mỗi lần rửa như vậy thì nước rửa hoá nước trắng.
Dùng chín: Có thể tuỳ theo đơn
Tẩm dấm sao qua hoặc sao cháy cạnh.
Tẩm rượu sao qua.
Bảo quản: Chưa bào chế thì thường phải sấy diêm sinh. Đã bào chế rồi thì để nơi khô ráo, tránh ẩm.
Bài viết liên quan
Xuyên Khung
Tên khoa học: Ligusticum wallichiiFranch. Thuộc họ hoa tán: Umbelliferae. Bộ phận dùng: thân rễ [...]
Th10
Xấu Hổ
Tên khoa học: Mimosa pudica L. Thuộc họ Trinh nữ: Mimosaceae Còn có tên là [...]
Th10
Uy Linh Tiên
Tên khoa học: Clematis sinensis Osbeck. Thuộc họ Mao lương: Ranunculaceae. Bộ phận dùng: Rễ. [...]
Th10
Tỳ Giải
Tên khoa học: Dioscoreacea tokoro Makino. Thuộc họ Củ nâu: Dioscoreaceae. Còn gọi là Xuyên [...]
Th10
Tục Đoạn
Tên khoa học: Dipsacus japonicusMiq. Họ Tục đoạn: Dipsacaceae Bộ phận dùng: Rễ. Rễ khô, [...]
Th10
Thổ Phục Linh
Tên khoa học: Smilax glabra Roxb. (Smilax hookeri Kuntn). Thuộc họ Hành tỏi: Liliaceae. Còn [...]
Th10